Chương 1Xã hội Mông Cổ thế kỷ XIINgười Mông Cổ chính tông chính là một trong những giống dân du mục ở miền Đông Bắc xứ
Ngoại Mông ngày nay, khoảng giữa hai con sông Onon và Kéroulène.
Họ thuộc giống da vàng, có nhiều nét đặc biệt: mặt rộng, mũi xẹp, lưỡng quyền cao, mắt
xếch, môi dày, râu cằm thưa, tóc cứng và đen. Vóc người thấp nhưng vạm vỡ, da thẫm, hai chân
hơi cong. Nhờ sống giữa một cõi đất cằn cỗi rộng bát ngát, mùa đông lạnh cắt da, mùa hạ nóng
thiêu người, họ có sức khỏe và sức chịu đựng bền bỉ, dẻo dai lạ thường.
Theo truyền thuyết thì ngày xưa tổ tiên người Mông Cổ bị giống dân Thổ đánh bại phải lẩn
trốn trong vùng núi Erkéné- Kuoun. Cho đến thế kỉ thứ IX họ mới dám xuống núi sinh sống ở
lưu vực sông Sélenga và sông Onon. Tù trưởng lúc bấy giờ là Bật-Tê-Si-Nôlấy bà Cô-A Ma-Ran
có một trai duy nhất tên Ba-Tát-Si. Từ đó xuống mười ba đời nữa đến Đô-Bun: ông này mất
sớm để lại bà vợ là A-Lan-Khoát-Nhã, một hôm nhiễm phải một luồng ánh sáng, thụ thai rồi
sinh ra ba người con. Người con út tên là Bu-đăng-Sa, là ông tổ của bộ tộc Bọt-di-Dinh, dòng
Ni-Ruôn, nổi tiếng là người giản dị. Ông ta thường chỉ cỡi một con lừa ghẻ lở, đuôi còi… Đó là
ông tổ tám đời của Thành Cát Tư Hãn.
Đến thế kỉ thứ XII, dân Mông Cổ chia ra nhiều đoàn trại độc lập, khi thì đánh lẫn nhau, khi thì
họp lại đánh kẻ thù chung là dân Thát Đát. Gia đình của Thành Cát Tư Hãn thuộc tộc Ki-Dát, bộ
tộc Bọt-di-Dinh. Từ khi Thành Cát Tư Hãn thống nhất được Mông Cổ, các sử gia thường chia
giống dân này ra làm hai dòng, căn cứ ở chỗ họ thuộc dòng Ki-Dát hay dòng khác.
Dòng thứ nhất gọi là dòng Ni Ruôn, thuộc giống Mông Cổ thuần túy, tự hào là con cháu của
thần Ánh Sáng.
Dòng thứ hai thuộc giống Durlukin, lai nhiều giống khác. Dòng Niruon gồm có 12 bộ tộc:
Taidjigot, Tayitchiout, Taijiout, Ourou’oud, Mangquoud, Djadjirat, Baroulas, Ba’arin, Dorben,
Saldjiout, Quadagin, Katakin.
Dòng Dulurkin gồm có 8 bộ tộc: Aroulat, Baya’out, Koroj, Seldu, Ikiras, Kongirat, Ongirat,
Koukourat; những bộ tộc này du mục ở phía Đông Nam, dưới chân núi Nam Khingan cạnh xứ
Thát Đát. Còn một bộ lạc nữa tên là Djéliar cũng liệt vào giống Mông Cổ, ở vùng hợp lưu sông
Khilok và sông Sélenga hoặc sông Onon, mà có sử gia cho là một bộ lạc Thổ qui phục Mông Cổ
rồi bị đồng hóa vào thời đại Anh hùng Cai Đô.
Nhưng căn cứ vào cách sinh sống, người ta phân biệt hai thứ bộ lạc: bộ lạc chăn nuôi ở miền
đồng cỏ và bộ lạc săn bắn ở miền rừng núi.
Vùng biên cảnh Mông Cổ – Tây Bá Lợi Á, nơi người Mông Cổ phát xuất, có hai miền khác biệt
rõ rệt: miền rừng ở phía Bắc và miền đồng cỏ hoang vu ở phía Nam. Có nhà sử học cho rằng:
“khởi đầu, Mông Cổ là dân rừng núi chớ không phải là dân đồng cỏ, căn cứ vào chỗ họ sớm biết
dùng loại xe bốn bánh bằng cây và chỉ dùng thùng cây chớ không dùng túi da như người Kagâz
ở đồng cỏ”.
Những bộ lạc giàu thường được tổ chức chặt chẽ, xã hội chia làm bốn giai cấp:
1. Hạng quý tộc nắm quyền thống trị, gồm có hạng Dũng Sĩ, Tộc trưởng, Hiền nhân và, sau
này chịu ảnh hưởng của Trung Quốc, thêm hạng Thân vương. Vai trò của tộc trưởng và dũng sĩ
là tìm đồng cỏ chăn nuôi, sai khiến nô lệ, chăn nuôi súc vật cùng là điều khiển việc dựng lều
trại. Giai cấp này chỉ huy tất cả những giai cấp sau:
2. Hạng chiến sĩ
3. Hạng thường dân
4. Hạng nô lệ
Hạng sau này gồm những người nô lệ và những bộ lạc bại trận bị bắt đi chăn súc vật hoặc
phục vụ cho chiến sĩ