NHẬP ĐỀ
Trận tấn công Tết năm 1968 là một trong những biến cố quan trọng của chiến tranh Việt
Nam, là một đỉnh cao của hoạt động quân sự và có thể nói là trận đánh duy nhất người ta nhớ
đời. Sự kiện ấy đã được nhiều người xem như là một khúc quanh lịch sử đã làm cho Hoa Kỳ
phải lao vào một đường lối hoạt động mới tại Việt Nam và đã đưa đến việc chấm dứt sự can
thiệp quân sự của Hoa Kỳ tại nước này. Dù sao chắc chắn nó cũng đã làm cho chính phủ Hoa Kỳ
phải tiến hành nhận định lại về mọi mặt và chi tiết về các mục đích lẫn mục tiêu của họ tại Việt
Nam.
Những quyết định xuất phát từ việc nhận định lại này đã thay đổi triệt để khung cảnh chính
trị nội bộ của Hoa Kỳ, đã đưa đến chỗ đặt ra những giới hạn cho sự tham gia của Hoa Kỳ và đã
mở màn cho việc Hoa Kỳ rút quân tại Việt Nam.
Những quyết định đưa ra trong tháng 3-1968 dính líu đến các yếu tố không chỉ thuần túy
chiến lược quân sự mà cả đến dư luận của quần chúng và của Quốc hội, đến tính chất và kỹ
thuật thu thập tin tức, đến tâm lý của cả nước, đến các cá tính của những nhân vật trong nội bộ
bộ máy làm quyết định cả vòng trong lẫn vòng ngoài các giới cao cấp nhất trong chính quyền.
Nó còn dính líu đến cả các chương trình xây dựng xã hội to lớn, ổn định đồng đô la Mỹ và đến
số phận của đảng Dân chủ.
trong việc ra quyết định tại các cấp cao nhất trong chính phủ khi phải chịu ảnh hưởng của tất
cả các nhân tố này.
Những sự phân hóa và bất đồng ý kiến về việc Hoa Kỳ tham gia vào chiến tranh Việt Nam
vẫn chưa phai mờ trong trí nhớ và các nguy cơ về “lịch khác” nhất là khi tác giả nhìn vào việc
tường thuật đồng thời với giải thích, cũng thường được người ta chứng minh và rất thuyết
phục.
Một số người chủ trương rằng mọi nỗ lực nhằm hiểu thấu thâm ý của một sự biến mới xảy ra
quá lớn cũng chỉ là lời lẽ báo chí quá đáng mà thôi. Điều này có thể xác đáng vì nhiều lý do.
Thường thì các tài liệu có thể rất thiếu sót hoặc sai lạc và một số có thể vẫn còn trong vòng
bảo mật chưa được phổ biến.
Những tình cảm, những thành kiến, những thanh danh và những quan niệm của người thủ
một vai trò trong vụ ấy đâu có liên hệ tức thì và những kẻ từng góp phần trong các sự biến đều
vừa biết quá nhiều về phần trách nhiệm của họ trong các quyết định đã được đưa ra và quá ít
về phần của những người khác. Quả là cực kỳ khó mà khách quan cho được về những thành quả
của các quan niệm và ảnh hưởng của chính mình.
Đã có nhiều cách trả lời rõ ràng của những lập luận chống lại việc tìm hiểu kỹ lưỡng về những
sự biến xảy ra mới đây. Tất cả các tư liệu lịch sử đều có những gò bó cố hữu của chúng. Người
viết sử chẳng mấy khi gặp dịp nắm đủ tất cả các tin tức liên quan. Phần lớn những gì anh ta
nắm được đều đã bị chiến tranh hoặc ảnh hưởng của thời gian làm sai lạc trầm trọng. Cho nên
không nên kết luận rằng cần phải đình hoãn việc viết sử cho đến khi biết đủ tất cả các sự việc,
thu thập đủ các tư liệu có liên quan.
Quả thật, một người từng tham dự các sự biến có thể cho biết một vài sự hiểu biết tường tận
có ích. Có một điều là anh ta thấy rõ hơn về các khó khăn trong việc điều hành và trong thủ tục
đang gò bó các cấp làm quyết định ở cấp cao nhất khi phải đặt tên và thực hiện các chính sách
và kế hoạch. Ngoài ra không có một tác phẩm soạn thảo nào có thể thành hình trong khi đầu óc
trống rỗng và người nào làm công việc tìm hiểu cũng bước vào công việc với những ức đoán
hiểu biết và những thành kiến của chính mình bắt nguồn phần lớn lừ kinh nghiệm bản thân,
văn hóa và thời đại của chính người ấy. Trên phương diện này, mọi lịch sử chẳng qua cũng chỉ
là phản ảnh của các thời đại lúc viết.
Việc nghiên cứu và phân tích những sự biến xảy ra mới đây một khi được tiến hành có hệ
thống với đầy đủ sự hiểu biết và ý thức về các ức đoán tiềm tàng và công khai của những người
tham dự sẽ càng thích đáng hơn về chỗ là chúng có thể ảnh hưởng vào chiều hướng của chính
sách sắp đến chính vì lẽ chúng phải đương đầu với các vấn đề hiện có của thế giới có thật”.